
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Theo đó, người lao động (NLĐ) được xác định là đang đóng BHTN theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- NLĐ đã đóng BHTN của tháng chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc
hợp đồng làm việc và được cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) xác nhận trên
sổ BHXH;
- NLĐ đã đóng BHTN của tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ hoặc
hợp đồng làm việc và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH;
- NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc
hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc do ốm đau, thai
sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương
tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH;
- NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc
hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc không hưởng
lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan
BHXH xác nhận trên sổ BHXH;
- NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc
hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà tạm hoãn thực hiện HĐLĐ
hoặc hợp đồng làm việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn
vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Nghị định 61/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/2020.
Thanh Lợi